Đây thôn Vĩ Dạ – Vẻ đẹp của khổ thơ thứ hai

0
(0)

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nổi bật nhất của phong trào Thơ Mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, cảnh vật, con người một cách nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ chan chứa tình yêu và khát vọng sống như thế. Đặc biệt, khổ thơ thứ hai mang một nỗi nhớ da diết, da diết của nhà thơ. Khổ thơ này là bức tranh tâm trạng và thế giới của cõi mộng trong tình yêu và niềm tiếc nuối của nhà thơ đối với cuộc đời.

Khổ thơ thứ hai được mở ra khiến người đọc nhớ lại cảnh sông nước đêm trăng, kèm theo đó là tâm trạng băn khoăn, bâng khuâng của nhà thơ. Ta có thể chia khổ thơ này thành hai phần với cảnh sông nước và cảnh đêm trăng được gợi ra ở hai dòng đầu cũng là bức tranh tâm trạng của nhà thơ:

“Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây”
Nước buồn, hoa ngô đung đưa”

Đây thôn Vĩ Dạ - Vẻ đẹp của khổ thơ thứ hai 11

Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù theo cách nào thì nó vẫn gợi cảm giác về sông Hương – linh hồn của xứ Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, tĩnh lặng, gợi lên những nét riêng của xứ Huế: gió khẽ lay, mây nhè nhẹ bay, hoa ngô đồng khẽ đung đưa, sự chuyển động rất nhẹ nhàng, uyển chuyển gợi lên một không gian vô cùng yên bình. rất yên bình. Huế. Cảnh đượm buồn: buồn man mác, buồn thăm thẳm, buồn nhuốm màu không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ ngoại cảnh. Đoạn thơ như dài ra, kéo dài khiến cho nỗi buồn tưởng như vô tận. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân cách hóa”, dòng sông đã trở thành con người, mang tâm trạng, tâm hồn, tình cảm của con người. Khung cảnh nhuốm màu chia ly “Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây”. Câu thơ chia nhịp 4/3 thành hai nửa: một gió và một mây. Từ “gió” được lặp lại ở câu đầu tiên, vẽ nên một thế giới chỉ toàn gió, chỉ gió, chỉ gió. Từ “mây” ở mệnh đề thứ hai tạo ra một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Thế là, hai thứ trước đây chỉ gắn liền với nhau giờ đã tách rời, tách biệt. Gió lồng trong gió, mây lồng trong mây. Bài thơ mang cái phi lý về hiện thực khách quan, nhưng lại rất hợp lý về hiện thực tâm trạng. Nhà thơ đang sống biệt lập, sống trong một cuộc đời nghịch lý nên gió thổi mây bay. Từ lay mang trong dân gian một nét buồn, chỉ hoạt động rất nhẹ của hiện tượng khi có một cơn gió nhẹ. Nó mang cái buồn truyền thống của dân ca, thổi vào đó nỗi buồn muôn thuở của con người. Tranh phong cảnh đã thực sự trở thành bức tranh tâm trạng, thiên nhiên không còn là đối tượng miêu tả mà là phương tiện biểu đạt tâm hồn u ám, buồn bã của con người với sự thờ ơ, lạnh lùng, chia rẽ. rời khỏi…

Thế giới của cõi mộng tiếp tục được mở ra ở hai câu thơ sau, ta có thể nhận ra tâm trạng bâng khuâng, bâng khuâng của nhà thơ:

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Cảnh được gợi lên dưới ánh trăng lung linh, huyền ảo, mang đầy ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông đầy ánh trăng, hoặc cũng có thể là trăng chảy trong suối. “Thuyền trăng” là thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng như hình ảnh con thuyền. Dù thế nào thì trăng cũng đã lấp đầy không gian vừa thực vừa ảo, tạo cảm giác mông lung. Trong thơ Hàn Mặc Tử có cả trăng, để có thế giới phong ba, chứa đựng cảm xúc, xoa dịu nỗi đau, trăng là tri kỉ của Hàn Mặc Tử. “Ai thuyền” gợi ra một danh từ tầm thường. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh tương phản. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lí về thực tại nhưng ta có thể cắt nghĩa dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng có lúc không, mỏng và mờ, tri kỷ cũng nhạt và mong manh, sao băn khoăn, bâng khuâng. Chờ trăng là chờ sự thấu hiểu lẫn nhau, chờ sự đồng điệu, chờ sẻ chia và chờ khát khao, sự đồng cảm với cuộc đời, là người bình thường cũng muốn được đồng cảm. Từ “kịp” thể hiện tâm trạng khắc khoải, tâm trạng chờ đợi, mong mỏi của nhà thơ. Qua đó cho thấy quỹ thời gian chung sống đang ngày một cạn kiệt, sự chia ly vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường, nếu đêm nay không trở về thì còn nhiều đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử, nếu đêm nay thuyền không về, nếu không có sự đồng cảm, thi sĩ sẽ ra đi mãi mãi trong đau buồn.

Cần nhấn mạnh sự chuyển hướng miêu tả của tác giả ở khổ thơ thứ hai này, bởi đây là một trong những biện pháp nghệ thuật tinh tế giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn tình cảm của tác giả. Từ nhịp điệu, giọng điệu đến nghệ thuật và hình ảnh khách quan, tất cả đều góp phần soi sáng tâm trạng của chủ thể trữ tình. Qua đó, ta cảm nhận rõ ràng thế giới của cõi mộng với cảm giác chia lìa, xa cách và niềm khao khát mãnh liệt được trở về với cõi thực, về với cuộc đời mà nhà thơ nhớ nhung, yêu tha thiết. Tình yêu và nỗi đau được Hàn Mặc Tử thể hiện một cách nồng nàn, thấm thía qua từng hình ảnh, từng chữ của khổ thơ này.

Cảm nhận khổ thơ thứ hai Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy nỗi nhớ của tác giả đối với cảnh sông nước đêm trăng, qua đó ta hiểu được nỗi băn khoăn, bứt rứt của nhà thơ. Tác giả cũng chờ đợi sự cảm thông, sẻ chia để xoa dịu nỗi đau trên hành trình sang thế giới bên kia. Phải chăng đó là sự ngậm ngùi trước bi kịch cuộc đời của một nhà thơ tài hoa nhưng kém may mắn.

(Viết theo đề cương của cô Trịnh Thu Tuyết)


Xem thêm:

Đây thôn Vĩ Dạ – những câu hỏi đau đáu

Xem các bài viết về Đây thôn Vĩ Dạ tại:

Tham khảo các bài văn mẫu nâng cao tại chuyên mục:

Xem các bài viết mới nhất trên FB fanpage thuthuatcaidat.com

How useful was this post?

Click on a star to rate it!

Average rating 0 / 5. Vote count: 0

No votes so far! Be the first to rate this post.

As you found this post useful...

Follow us on social media!

We are sorry that this post was not useful for you!

Let us improve this post!

Tell us how we can improve this post?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.